TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM
Cạnh tranh thấp do các rào cản gia nhập đáng kể
Là ngành kinh doanh đặc thù liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia, ngành dầu khí Việt Nam chịu sự quản lý trực tiếp của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và sự giám sát của Bộ Công Thương.
PVN đã thành lập các công ty con, công ty liên kết hoạt động trong lĩnh vực dầu khí, tổ chức hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Nhóm giám sát và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp này từ khai thác đến phân phối sản phẩm.
Việc gia nhập ngành dầu khí Việt Nam không hề dễ dàng do những rào cản khắt khe, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và được sự chấp thuận của Nhà nước. Trong đó, rào cản về chính sách là nguyên nhân chính hạn chế các doanh nghiệp gia nhập ngành dầu khí Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp gần như độc quyền trong lĩnh vực hoạt động của mình, điều này mang lại lợi thế lớn.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến động giá dầu thô toàn cầu
Hoạt động kinh doanh của ngành dầu khí liên quan mật thiết đến dầu thô và các sản phẩm chế biến từ dầu thô, do đó, biến động của giá dầu thô thế giới sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Điều này có nghĩa là giá dầu thô tăng sẽ có tác động tích cực và ngược lại.
Sự biến động của giá dầu thô dựa trên quan hệ cung cầu, tuy nhiên ở một mức độ nào đó sẽ có ý chí chủ quan. Cụ thể, có một số quốc gia khai thác được trữ lượng dầu lớn, chiếm phần lớn nguồn cung của thế giới và một tổ chức mang tên OPEC + (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu thô) được thành lập. Tổ chức này là khối có thể làm thay đổi giá dầu: nếu muốn tăng giá dầu thô, OPEC + sẽ đồng ý cắt giảm sản lượng dầu thô, thắt chặt nguồn cung, điều đã diễn ra trong giai đoạn gần đây. Sự đảo chiều ngoạn mục của giá dầu thô từ 20 USD / thùng vào tháng 4/2020 lên xấp xỉ 70 USD / thùng vào tháng 4/2021 chủ yếu đến từ cam kết cắt giảm sản lượng khai thác dầu thô của các nước OPEC +.
CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA NGÀNH
Các công ty trong ngành dầu khí Việt Nam tham gia vào tất cả các khâu từ đầu vào (khai thác, thăm dò) đến đầu ra (chế biến, phân phối). Dầu thô và khí ẩm là nguyên liệu thô được khai thác ngoài khơi, chế biến trong đất liền và phân phối cho khách hàng.
Các mô hình hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành dầu khí có sự liên kết chặt chẽ, tạo thành chuỗi giá trị hoàn chỉnh. Sau khi dầu thô được chế biến để tạo thành xăng, dầu thành phẩm sẽ được đưa đi phân phối. Doanh nghiệp vừa chuyên môn hóa hoạt động kinh doanh của mình, vừa hỗ trợ các doanh nghiệp khác trong ngành, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành dầu khí Việt Nam. Khâu khai thác là khâu đầu tiên trong chuỗi giá trị của ngành dầu khí và có vai trò quan trọng nhất.
CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
Năm 2020, ngành dầu khí Việt Nam phải hứng chịu một cuộc “khủng hoảng kép”, đó là đại dịch COVID-19 và giá dầu giảm sâu.
Các doanh nghiệp dầu khí phải tập trung ứng phó với dịch bệnh khiến nhu cầu thị trường thấp và thu hẹp, đồng thời chống chọi với tình trạng giá dầu thô giảm chưa từng có trong lịch sử.
Giá dầu chứng kiến mức thấp kỷ lục trong 20 năm, đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử dầu khí thế giới, ngày 20/4/2020, giá dầu WTI âm 37,6 USD / thùng.
Theo số liệu báo cáo tài chính của các doanh nghiệp trong ngành, năm 2020, chỉ có 4/11 doanh nghiệp dầu khí trong nước có doanh thu tăng trưởng, bao gồm Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Dầu khí (PVD) và Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PVS), Công ty Cổ phần Bọc Dầu khí Việt Nam (PVB) và Công ty Cổ phần Dịch vụ Ngoài khơi PTSC (POS).
PVD, POS và PVB đều tăng trưởng lợi nhuận trong năm 2020. Riêng POS ghi nhận cả doanh thu và lợi nhuận đều tăng ba con số.
Về phía PVD, công ty của họ đã trải qua thời kỳ khó khăn hơn 4 năm qua khi lợi nhuận hàng năm đều dưới 200 tỷ USD. Trước đó, giai đoạn 2011 – 2015, PVD lãi hơn nghìn tỷ đồng.
Năm 2020, lợi nhuận của PVD tăng 5% lên gần 8 triệu USD trong bối cảnh dịch COVID-19 và giá dầu giảm mạnh khiến nhiều doanh nghiệp cùng ngành lao đao.
Đối với PVS, mặc dù doanh thu tăng 18% lên 873,7 triệu USD vào năm 2020 nhưng lợi nhuận sau thuế của công ty lại giảm 26% xuống 32,4 triệu USD.
Lãnh đạo PVS cho biết, do ảnh hưởng kép của dịch COVID-19 và giá dầu giảm, các hoạt động dịch vụ của PVS bị đình trệ, nhu cầu dịch vụ giảm và các dự án phải tạm dừng theo yêu cầu của khách hàng.
Cùng chung khó khăn với PVS, Công ty Cổ phần Vận tải Khí hóa lỏng (LPG) Việt Nam và Tổng Công ty Vận tải Dầu khí (PVT), đơn vị nắm giữ 30% thị phần vận tải xăng dầu cả nước đã phải giảm giá các mặt hàng xăng dầu. Điều này khiến doanh thu và lợi nhuận hàng năm giảm lần lượt 4% và 7%.
Cú va chạm kép cũng khiến đại gia khí là Tổng công ty Khí Việt Nam (GAS) rúng động.
Năm 2020, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của PV GAS lần lượt giảm 14% và 34% so với năm 2019, đạt 2,8 tỷ USD và 349,3 triệu USD. Lợi nhuận năm 2020 của công ty cũng ghi nhận mức thấp nhất trong 4 năm qua.
So với kế hoạch, PV GAS vẫn thực hiện được 97% chỉ tiêu doanh thu và vượt 19% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
Ở nhóm sản xuất, chế biến và kinh doanh xăng dầu, Dầu khí Việt Nam (OIL) và Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) lỗ kỷ lục vào năm 2020, trong khi Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (PLX) phục hồi sau lỗ lớn trong năm quý I năm 2020.
Lợi nhuận của nhóm này đến từ chênh lệch giữa giá bán xăng và giá dầu thô. Công ty luôn duy trì lượng dầu thô tồn kho cao nên giá dầu thô giảm sẽ dẫn đến giá bán giảm trong khi chi phí sản xuất vẫn ở mức cao.
Bên cạnh đó, việc cung cấp xăng dầu thành phẩm cao hơn cầu trong bối cảnh dịch COVID-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh. Do đó, năm 2020, BSR lỗ 125,5 triệu USD trong khi năm 2019 lãi 126,6 triệu USD.
Theo: VietnamCredit