Trong nửa cuối năm 2020, lãi suất tiền gửi phải đối mặt với áp lực tăng không hề nhỏ, đặc biệt là đối với các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Dữ liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy, hàng năm, tiền gửi của doanh nghiệp vào ngân hàng thường giảm rồi tăng dần, cuối năm, mức tăng không khác nhiều so với tiền gửi của dân cư, thậm chí xa hơn. Tuy nhiên, trong 4 tháng năm nay, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp đã rút mạnh tiền gửi từ ngân hàng (trong 4 tháng, số tiền rút ròng là hơn 150.000 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái là hơn 50.000 tỷ đồng.), rất có thể sẽ trang trải chi phí kinh doanh trong bối cảnh dòng doanh thu bị ảnh hưởng nặng nề. Bên cạnh đó, nguồn tiền gửi của mọi người cũng bị ảnh hưởng. Số lượng tiền gửi của người dân trong ngân hàng trong 4 tháng năm nay chỉ tăng hơn 160.000 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái tăng hơn 260.000 tỷ đồng. Trong 4 tháng đầu năm 2020, tổng tiền gửi của khách hàng chỉ tăng gần 6.300 tỷ đồng (tương đương mức tăng 0,07%), trong khi cùng kỳ năm ngoái tăng lên hơn 200.000 tỷ đồng (tương đương mức tăng 2,69%). ).
Từ góc độ khác, sự gia tăng rất chậm tiền gửi của khách hàng tương ứng với tăng trưởng tín dụng kém thỏa đáng. Khi không thể tăng sản lượng, ngân hàng cũng được yêu cầu giảm huy động vốn đầu vào để giảm chi phí. Nhu cầu huy động vốn nhỏ, bơm vốn rẻ trên thị trường liên ngân hàng (lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp kỷ lục trong một thời gian dài gần đây), do đó, huy động lãi suất cho kỳ hạn 6 tháng trở lên đã giảm khá mạnh. Theo thống kê từ Công ty Chứng khoán SSI, từ đầu năm đến nay, lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại lớn đã giảm tổng cộng 0,6-0,75 điểm phần trăm với thời hạn dưới 12 tháng. (khoảng 4-5,5% / năm) và giảm từ 0,65-1 %% trong thời gian 12 và 13 tháng (xuống 5,7-6,2% / năm).
Giảm lãi suất là một chính sách chung của Ngân hàng Nhà nước trong nhiều năm, tuy nhiên, không dễ để thực hiện. Đã nhiều lần cơ quan này tích cực bơm vốn giá rẻ vào thị trường liên ngân hàng nhưng không “thâm nhập” đáng kể vào thị trường 1 (thị trường dân cư và các tổ chức kinh tế). Trong khi đó, việc hạ lãi suất trần trong thời gian dưới 6 tháng không có nhiều tác động vì tiền có xu hướng chuyển sang thời hạn cao hơn không bị áp đặt. Điều này là dễ hiểu vì khi đói vốn, các ngân hàng vẫn phải tăng lãi suất theo các điều khoản này để tăng tiền.
Một điểm khác cũng chi phối chính sách hạ lãi suất là lạm phát. Áp lực lạm phát gia tăng, áp lực lãi suất lớn hơn, một mặt là duy trì lãi suất thực dương, tránh gây lo lắng cho người dân, mặt khác, tăng lãi suất để hấp thụ tiền để giảm áp lực lạm phát.
Nếu chúng ta xem xét các yếu tố trên, có thể thấy rằng còn quá sớm để xác nhận rằng kết quả giảm lãi suất hiện tại sẽ được duy trì trong một thời gian dài sau đại dịch, đặc biệt là cho đến khi nền kinh tế Việt Nam, cũng như thế giới, dần dần phục hồi. Do những đặc thù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế, ngân hàng đang trong thời kỳ thiếu vốn hiếm hoi. Nhưng khi nền kinh tế phục hồi, nhu cầu huy động vốn tăng lên, áp lực tăng lãi suất cũng tăng.
Ngân hàng Nhà nước vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm 11 – 14% đầy tham vọng mặc dù có tính đến tác động của đại dịch Covid-19. Tham vọng này không khó hiểu, vì tăng trưởng GDP trong nhiều năm đã phụ thuộc rất nhiều vào tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, tính đến giữa tháng 6, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 2,13% so với đầu năm. Do đó, áp lực tăng tín dụng trong 6 tháng qua là rất lớn, nhưng không nhất thiết là không khả thi vì không giống như các nước khác, Việt Nam đã kiểm soát tốt đại dịch kể từ cuối tháng 4, một tiền đề quan trọng để phục hồi. tốt trong nửa thứ hai. Nếu tình hình kinh tế thế giới dần cải thiện sau thời kỳ tách biệt xã hội, “cánh cửa” tăng tín dụng thậm chí còn rộng hơn.
Nhu cầu huy động vốn tăng để phục vụ tăng trưởng tín dụng, tạo áp lực tăng lãi suất, đó là một điều. Mặt khác, áp lực lạm phát không nhỏ. Ngay cả trong bối cảnh suy thoái kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng trung bình (CPI) trong 5 tháng đầu năm 2020 vẫn tăng lên 4,39% so với cùng kỳ năm ngoái, mức cao nhất trong 3 năm qua. Áp lực sẽ lớn hơn nhiều khi nền kinh tế phục hồi và như đã đề cập, áp lực lạm phát càng cao, áp lực tăng lãi suất càng cao, mặt khác, để duy trì lãi suất thực dương, mặt khác, để hấp thụ tiền trở lại để giảm áp lực lạm phát.
Tóm lại, trong nửa cuối năm 2020, lãi suất đang phải đối mặt với áp lực tăng đáng kể, đặc biệt là đối với các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do không có lãi suất trần.
Nguồn: https://vietnamfinance.vn/
- Xem thêm thông tin báo cáo chi tiết và phân tích chuyên sâu về ngành Ngân Hàng Việt Nam tại:
https://vietnamcredit.com.vn/products/industries/central-banking_1038#K
- Xem thêm bản tin tiếng anh tại:
https://vietnamcredit.com.vn/news/interest-rates-face-upward-pressure-in-the-second-half-of-2020_14027